Được coi là “kẻ giết người” hàng đầu trên thế giới chỉ xếp sau bệnh tim và nguy hiểm hơn nhiều so với các bệnh ung thư hay AIDS. Tỷ lệ người tử vong do đột quỵ (tai biến mạch máu não) chiếm tới 50%.
Hiện nay có nhiều loại thuốc điều trị và phòng ngừa khác nhau được sử dụng cho bệnh nhân bị đột quỵ. Tuy nhiên, mỗi loại thuốc sẽ được bác sĩ chỉ định dựa vào từng loại đột quỵ mà người bệnh mắc phải hoặc các nguyên nhân khác nhau gây ra đột quỵ.
Đột quỵ là một trong những bệnh lý hàng đầu nguy hiểm tới tính mạng. |
1. Thuốc làm loãng máu
1.1. Thuốc chống đông máu
Cục máu đông hình thành bởi một loạt các hiện tượng xảy ra trong quá trình cầm máu với 3 giai đoạn chính là: co mạch, kết tập tiểu cầu, đông máu. Nó có trong cơ thể do nhiều nguyên nhân khác nhau gây ra các cơn đau thắt ngực, nhồi máu cơ tim, đột quỵ, thuyên tắc khối tĩnh mạch... và đều để lại hậu quả nặng nề cho bệnh nhân, thậm chí có thể gây tử vong. Do vậy, việc sử dụng thuốc chống đông máu trong dự phòng và điều trị các bệnh do nguyên nhân huyết khối đóng vai trò rất quan trọng.
Hiện nay Warfarin (Coumadin, Jantoven) là loại thuốc chính được sử dụng để chống đông máu. Thuốc vào cơ thể bằng đường uống hoặc tiêm tĩnh mạch.
Loại thuốc này được chỉ định cho những người bị rung tâm nhĩ (nhịp tim không đều). Tuy nhiên, Warfarin cũng được sử dụng với những người bị đột quỵ để ngăn ngừa đột quỵ tái phát.
Khi sử dụng Warfarin, bệnh nhân cần xét nghiệm máu định kì để kiểm tra nồng độ Warfarin trong máu. Ngoài ra, người bệnh cũng nên lưu ý tới chế độ ăn uống hằng ngày vì một số loại thực phẩm như là: bưởi, rau cải xanh, rau bina, súp lơ có chứa nhiều vitamin K nên có thể làm cho thuốc hấp thu kém hiệu quả hơn.
Warfarin có thể gây nguy hiểm tới tính mạng nếu người sử dụng thuốc bị rối loạn chảy máu. Do đó trước khi được kê đơn thuốc điều trị đột quỵ, bệnh nhân cần khai báo đầy đủ tình trạng và tiền sử bệnh tật của bản thân. Nếu họ có bệnh này, bác sĩ sẽ xem xét một loại thuốc khác thay thế phù hợp hơn.
1.2. Thuốc chống kết tập tiểu cầu
Nhóm thuốc này gồm các thuốc dùng theo đường uống.
Cơ chế tác dụng: Thuốc ngăn ngừa sự hình thành nút chặn tiểu cầu nên có tác dụng chống đông máu từ giai đoạn cầm máu sơ cấp.
Có 5 nhóm thuốc chống kết tập tiểu cầu chính được sử dụng trên lâm sàng hiện nay:
Aspirin là thuốc kinh điển có tác dụng giảm đau, hạ sốt, chống viêm nhưng nhiều năm gần đây, nó được dùng như một thuốc chống kết tập tiểu cầu với liều thấp 100 mg/ngày.
Aspirin là một trong số thuốc có khả năng chống kết tập tiểu cầu |
Clopidogrel (Plavix) là dẫn xuất thienopyridin đã được chứng minh trên số lượng lớn bệnh nhân có hiệu quả và độ an toàn cao trong phòng ngừa các biến cố huyết khối ở động mạch
Ticlopidin (Ticlid) có cấu trúc tương tự như clopidogrel, do đó có cơ chế tác dụng giống clopidogrel. Về hiệu quả điều trị, 2 thuốc này là tương tự nhau, nhưng ticlopidin kém an toàn hơn vì tỷ lệ bệnh nhân gặp tác dụng không mong muốn là giảm bạch cầu hạt cao 3,2% (trong khi clopidogrel chỉ là 0,15% aspirin là 0,21%).
Dipyridamol (Agrenox, Persantin) có cơ chế tác dụng chưa rõ ràng hay được sử dụng phối hợp với aspirin
Và cuối cùng là Trifusal (Disgren), một chất thuộc nhóm salicylat có cấu trúc gần giống aspirin Thuốc có tác dụng chọn lọc trên cyclooxygenase của tiểu cầu, do đó ức chế sự tạo thành thromboxan A2, là chất gây kết tập tiểu cầu mạnh nhất. Có nghiên cứu chỉ ra rằng thuốc có hiệu quả tương đương aspirin trong phòng ngừa các biến cố do huyết khối động mạch và tỷ lệ bệnh nhân gặp tác dụng phụ chảy máu nặng thấp hơn.
2. Thuốc làm tan cục máu đông
Thuốc làm tan cục máu đông (thuốc làm tan huyết khối) là những chất kích hoạt Plasminogen mô (tPA) có tác dụng phá vỡ cục máu đông trong mạch máu để dòng máu được lưu thông.
Đây là loại thuốc duy nhất hiện có để sử dụng như một biện pháp cấp cứu trong cơn đột quỵ. Thuốc cần được sử dụng trong vòng 3 – 4,5 giờ khi xuất hiện các triệu chứng đột quỵ.
Thuốc tan huyết khối thường được truyền trực tiếp vào cơ thể thông qua tiêm tĩnh mạch bắp tay để hoạt động nhanh nhất có thể giúp giảm thiểu biến chứng nguy hiểm do đột qụy để lại.
Người sử dụng thuốc làm tan huyết khối có nguy cơ bị biến chứng chảy máu nguy hiểm trong một vài trường hợp.
3. Statin – thuốc hạ mỡ máu
Stalin là nhóm thuốc giúp làm giảm nồng độ cholesterol trong máu. Những loại thuốc này có tác dụng ngăn chặn cơ thể sản xuất một loại enzyme có tên là HMG-CoA reductase. Đây là loại enzyme có thể biến cholesterol thành các mảng xơ vữa động mạch trong mạch máu. Sử dụng thuốc Statin giúp ngăn chặn quá trình này xảy ra góp phần ngăn ngừa nguy cơ bị tắc mạch máu và hình thành những cơn đau tim.
Nhóm thuốc statin gồm có các loại:
Atorvastatin (Lipitor)
Simvastatin (Zocor)
Fuvastatin (Lescol)
Pitavastatin (Livalo)
Lovastatin (Altoprev)
Pravastatin (Pravachol)
Rosuvastatin
4. Thuốc điều trị tăng huyết áp
Người bệnh cao huyết áp nếu dừng thuốc đột ngột, huyết áp có thể tăng lên quá cao gây các biến chứng như nhồi máu não, tắc mạch máu não... Mạch máu não không chịu nổi áp lực có thể bị vỡ, gây xuất huyết não, liệt nửa người, liệt hoàn toàn, nặng thì có thể tử vong.
Bác sĩ khuyến cáo bệnh nhân đang điều trị huyết áp tuyệt đối không được quên hoặc tự ý dừng uống thuốc. Ngoài ra, cần bỏ hút thuốc lá, không uống rượu, tập thể dục đều đặn ít nhất 30 phút mỗi ngày. Khẩu phần ăn hàng ngày giảm muối đồng thời ăn nhiều trái cây và rau xanh.
Thuốc hạ áp là một trong số những biện pháp được dùng để phòng ngừa đột quỵ |
Các loại thuốc hạ huyết áp thường được sử dụng để điều trị và phòng ngừa đột qụy bao gồm 5 nhóm sau đây:
Thuốc ức chế men chuyển
Thuốc chẹn kênh Calci
Thuốc chẹn beta
Thuốc chẹn thụ thể Angiotensin II
Thuốc lợi tiểu
Mỗi nhóm thuốc sẽ có ưu, nhược điểm khác nhau nên sẽ được chỉ định cho các đối tượng khác nhau. Vì vậy, không được tự ý sử dụng mà hãy liên hệ với bác sĩ để được thăm khám và điều trị phù hợp, kịp thời.
Nhận xét
Đăng nhận xét